Thời kỳ xây dựng CNXH ở Miền Bắc, đấu tranh giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.

Sau khi trường Đại học GTVT được chính thức thành lập, bộ máy quản lý ban đầu gồm: Ban giám hiệu, một số phòng ban chức năng như (Hành chính- Quản trị, Giáo vụ, Tổ chức nhân sự...), các khoa Công trình, Cơ khí, Vận tải và các Bộ môn cơ bản. Hiệu trưởng đầu tiên là Ông Nguyễn Kha, Hiệu phó là Ông Nguyễn Nhật Quang và Ông Bùi Thu.

Đảng bộ Trường lúc đầu mới chỉ là một Chi bộ với 10 đảng viên (năm 1960), đến đại hội lần thứ nhất( ngày 12 tháng 1 năm 1962) đã trở thành Đảng bộ cơ sở với 199 đảng viên gồm 13 Chi bộ ( 2 Chi bộ cơ quan và 11 Chi bộ sinh viên), sau đó tăng lên 433 đồng chí ( năm 1963). Ông Bùi Thu (Hiệu phó) giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy.

Những giáo viên đầu tiên của Trường năm 1960 – 1961 (Giáo viên Điện – Vận tải)

Thời điểm mới thành lập tài liệu tham khảo, giáo trình, bài giảng còn rất thiếu; hệ thống phòng thí nghiệm, xưởng thực tập nghèo nàn nên Ban Giám hiệu xác định chủ trương tinh giảm lý thuyết, chọn lọc, cố gắng đưa các ví dụ thực tế sản xuất vào bài giảng để minh họa; Tăng cường đưa sinh viên ra hiện trường vừa học vừa làm; đồng thời mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng chuyên môn, ngoại ngữ cho giáo viên. Trường cũng động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên biên dịch tài liệu, sách giáo khoa, sách tham khảo của nước ngoài (chủ yếu là sách của Liên Xô cũ và Trung Quốc) làm tài liệu giảng dạy, tài liệu tra cứu cho giáo viên và sinh viên.

Từ năm 1964, hoạt động mọi mặt của nhà trường đi dần vào nề nếp, các ngành đào tạo tăng từ 04 ngành (năm 1962) đến 13 ngành và sau đó là 20 ngành (năm 1971). Nhà trường đã đề nghị Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp và Bộ Giao thông vận tải cho phép được cử một số giáo viên giỏi đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài.

Năm 1965 trường bắt đầu tuyển sinh các ngành Kinh tế Vận tải ô tô, Kinh tế Vận tải sắt, Kinh tế xây dựng. Các chuyên gia Liên Xô cũ đã tận tình giúp đỡ nhà trường xây dựng kế hoạch học tập, nội dung chương trình các môn học của các ngành này.

Đoàn chuyên gia Liên Xô sang làm việc với Khoa Vận tải - Kinh tế (1962)

 

Tháng 8 năm 1964, Đế quốc Mỹ bắt đầu cho máy bay đánh phá miền Bắc, Nhà trường vừa phải tiếp tục công tác đào tạo, vừa phải lập kế hoạch ứng phó với các tình huống xấu nhất khi cả nước ở trong tình trạng chiến tranh. Các lớp chuyển cấp và các lớp cầu đường chính quy được rút ngắn thời gian đào tạo để sẵn sàng cung cấp cán bộ kỹ thuật  cho quân đội  và Bộ giao thông vận tải, tham gia mở đường, bắc cầu phục vụ sản xuất và chiến đấu.

Cuối năm 1964, Trường đã cử ba đoàn giáo viên và sinh viên khoa Công trình đến các công trường 111, 112 ở Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái để tham gia khảo sát, thiết kế và thi công các tuyến đường ô tô vùng Tây Bắc.

Ban Giám hiệu Nhà trường họp bàn về việc đi sơ tán

Phạm vi và tần suất đánh phá của máy bay Mỹ ra miền Bắc ngày càng mở rộng, khả năng nhà trường phải sơ tán đã rõ, Ban Giám hiệu đã cử một số đoàn cán bộ đi khảo sát tìm địa điểm đặt trường ở nhiều địa phương, cuối cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu quyết định đưa trường về vùng Mai Sưu ( huyện Lục Nam, tỉnh Hà Bắc). Riêng Khoa Tại chức thì sơ tán về Hát Môn (huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Đông).

Hợp tác xã tháng 8 - Mật danh của Trường tại nơi sơ tán Mai Sưu

Chỉ trong vòng ba tháng, hàng trăm tấn thiết bị, vật dụng, hơn một nghìn người (gồm cả trẻ con, người già) đã vượt qua hơn 100 km  đường nhiều đèo, dốc, sông, suối đến nơi tập kết an toàn. Các đơn vị được bố trí trên một địa bàn rất rộng  gồm 4 xã Trường Sơn, Hùng Sơn, Bắc Sơn, Mai Sơn; mỗi khoa cách nhau cả chục kilomet. Cán bộ, giáo viên, sinh viên bắt tay vào xây dựng nhà ở, nhà ăn, lớp học, hầm trú ẩn, giếng nước..., vật liệu xây dựng là tranh, tre, nứa, lá khai thác trong rừng ở ngay nơi sơ tán.

Thầy và trò Nhà trường vào rừng khai thác tre nứa xây dựng Trường ở nơi sơ tán

Lớp học tại nơi sơ tán Mai Sưu

Vừa học tập, vừa sẵn sàng chiến đấu là phong trào sôi nổi của sinh viên Nhà trường trong giai đoạn này

Lễ xuất quân đảm bảo giao thông năm 1968

Trong điều kiện phải sơ tán nhưng Nhà trường vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng đội ngũ, đào tạo nhân lực phục vụ đất nước và công tác nghiên cứu khoa học.

Đến năm 1968 trường có 319 giảng viên, 456 CB-CNV, 4880 sinh viên chính quy, 1450 sinh viên tại chức. Tỉ lệ giáo viên trên sinh viên là 1/15; 1500 sinh viên khối kỹ thuật đã tốt đã tốt nghiệp (gồm 633 chính quy, 255 chuyển cấp, 312 tại chức)

Từ năm 1965 - 1968, Nhà trường đã có 63 đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có 8 đề tài phục vụ giảng dạy, 30 đề tài phục vụ sản xuất, 25 đề tài phục vụ quốc phòng, đảm bảo giao thông. Biên soạn được 201/233 giáo trình, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên. Nhà trường hai năm liền đạt danh hiệu “Trường tiên tiến”; được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba.

Chế tạo vỏ ca nô xi măng lưới thép năm 1968

Chế tạo vỏ phao xi măng lưới thép năm 1968

Ngày 23/7/1968, Chính phủ có quyết định số 1/5/CP tách các chuyên ngành đường thủy để thành lập phân hiệu Đại học Giao thông đường thủy và đổi tên trường Đại học GTVT thành Đại học giao thông đường sắt và đường bộ.

Sau đợt tổng tiến công Mậu Thân (năm 1968) của quân đội và nhân dân miền Nam, đế quốc  Mỹ phải tuyên bố chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc.

Tháng 9 năm 1968, trường rời Mai Sưu trở lại Hà Nội. Riêng sinh viên khóa 9 và khóa 10 đang học cơ bản thì tiếp tục học ở nơi sơ tán cho đến tháng 7 năm 1971.

Hai trường Trung cấp Giao thông thủy bộ và Trung cấp kĩ thuật đường sắt sau khi đi sơ tán đã ở lại cơ sở mới tại Vĩnh Yên và Việt Trì. Toàn bộ nhà đất của hai trường tại Hà Nội (khu Voi Phục và khu ký túc xá Nguyễn Chí Thanh ngày nay) được Bộ GTVT giao cho Trường Đại học giao thông sắt – bộ quản lý và sử dụng

Hội nghị Paris không tiến triển, Mỹ tăng cường viện trợ cho chính quyền Sài Gòn, mở nhiều chiến dịch càn quét qui mô lớn vào vùng giải phóng ở miền Nam. Hàng trăm sinh viên các khóa 7, 8, 9, 10 đã được động viên vào quân đội, phục vụ trong nhiều quân binh chủng (công binh, pháo binh, phòng không,….), ở khắp các mặt trận. Nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng, sau năm 1975 những đồng chí còn sống trở về trường tiếp tục học tập cùng với sinh viên khóa 13 và 14.

Cán bộ, giáo viên, sinh viên Trường lên đường nhập ngũ năm 1970

Sổ vàng ghi tên những đồng chí lên đường đánh Mỹ từ 1970 – 1974 

 

Năm 1971, Trung Quốc viện trợ cho trường mười phòng thiết bị dạy học. Nhà trường được Bộ GTVT cấp kinh phí xây dựng nhà học năm tầng (nhà A3 hiện nay). Đây là tòa nhà kiên cố đầu tiên của Trường, với các phòng thí nghiệm, phòng học khang trang, hiện đại.

 

Năm 1972, Mỹ trở mặt tiếp tục đưa máy bay ra đánh phá miền Bắc. Các trường Đại học ở Hà Nội lại phải sơ tán. Tháng 4 năm 1972, phần lớn các bộ phận của trường chuyển đến hai xã Thanh Thủy, Hồng Dương (huyện Thanh Oai – Hà Tây). Lần sơ tán này, cán bộ, giảng viên và sinh viên chủ yếu ở nhờ nhà dân, lớp học tổ chức ngay ở đình, chùa, trụ sở thôn, xã,… Thầy và trò vừa học, vừa được bố trí thành từng đơn vị đi phục vụ đảm bảo giao thông, sửa chữa cầu đường, khôi phục hệ thống thông tin liên lạc ở Hà Nội và các tỉnh như Lạng Sơn, Hà Bắc, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Thanh Hóa.

Cuối năm 1972, trước khả năng Mỹ sẽ tăng cường đánh phá ác liệt hơn nữa vào Hà Nội, bộ phận còn trụ lại trong trường cũng sơ tán sang hai xã Mễ Sở, Yên Nghĩa (huyện Văn Giang – Hải Hưng).

Năm học 1971 -1972, do những thành tích nổi bật trong đào tạo, trong công tác đảm bảo giao thông, trong đợt giải cứu hàng hóa bị bão lụt tại ga Yên Viên, trường đã được Bộ GTVT tặng cờ thi đua “Trường khá nhất” và Chính phủ tặng thưởng “Huân chương Kháng chiến hạng nhì”.

Giáo viên và sinh viên Nhà trường tham gia chống lụt tại ga Yên Viên năm 1971
 

Đầu năm 1973, Hiệp định Paris về Việt Nam được kí kết, quân đội Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam, nhưng cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vẫn tiếp tục. Được sự đồng ý của Bộ GTVT và Bộ quốc phòng, nhà trường đã tổ chức “Đoàn TS73, do đồng chí Lê Văn Chuyển làm trưởng đoàn gồm 119 giáo viên và sinh viên (hai lớp đường bộ khóa 9 và 10) tham gia khảo sát, thiết kế một tuyến đường phía đông Trường Sơn. Đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Bộ tư lệnh Bộ đội Trường Sơn tặng cờ “Mở đường thắng lợi”.

Đoàn TS 73 trước giờ lên đường đi khảo sát

Cán bộ chỉ huy các phân đội của Đoàn TS 73

Gần 5000 sinh viên từ khóa 6 đến khóa 11 được đào tạo hoàn toàn trong những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ không những đã làm tốt nhiệm vụ của người cán bộ kỹ thuật trong thời chiến mà còn đáp ứng được các yêu cầu cao về khoa học công nghệ trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước những năm sau này.

Báo cáo đề tài Khoa học “ Thẩm kế đoạn đầu máy-toa xe khu mỏ Apatit Lao Cai”

Sinh viên khoa Cơ khí tham gia bảo dưỡng máy thi công

Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em, hoạt động đối ngoại của Nhà trường đã đạt được những kết quả nhất định. Các nước như Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức…đã giúp đỡ, cộng tác với Nhà trường trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cử chuyên gia sang giúp, trao đổi học thuật. Tháng 6 năm 1974, một đoàn cán bộ khoa học kỹ thuật của Trường do Hiệu trưởng Nguyễn Nhật Quang dẫn đầu đã sang thăm, dự Hội nghị khoa học tại trường Đại học Dresden (CHDC Đức), mở đầu trang mới trong hợp tác quốc tế.

Hiệu trưởng Nguyễn Nhật Quang ký kết văn bản hợp tác với Hiệu trưởng Trường Đại học Dresden